7/8/11

PHẦN THỨ NHẤT:PHẦN MỞ ĐẦU

1.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), Đại hội đã đưa đất nước ta tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh đất nước ta đã không ngừng đổi mới và phát triển. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng Sản Việt Nam quyết định đẩy mạnh CNH-HĐH. Nghị quyết TW 2 Khóa VIII xác định ”Muốn tiến hành CNH-HĐH thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục – đào tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững”. Bởi vậy, “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhà nước và xã hội phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” (Điều 35 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam).

“Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện có đạo đức tri thức, sức khỏe thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách phẩm chất và năng lực công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. (Điều 2 Luật Giáo dục của nước CHXHCN Việt Nam 2005).

Trong những năm qua, đất nước ta chuyển mình trong công cuộc đổi mới sâu sắc và toàn diện: từ một nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Chuyển từ chính sách ”đóng cửa” sang chính sách “mở cửa” làm bạn với các nước trong cộng đồng thế giới. Với công cuộc đổi mới, chúng ta có nhiều thành tựu to lớn rất đáng tự hào về phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội,  trong đó giáo dục đã có một cuộc cách mạng thực sự.

Khác với những lần cải cách giáo dục trước đây ( năm 1950, 1956, 1980), lần này ngành giáo dục chỉ tập trung đổi mới chương trình giáo dục phổ thông    ( từ Tiểu học qua Trung học cơ sở đến Trung học phổ thông). Tuy nhiên, cần hiểu chương trình theo nghĩa rộng như Luật định: “ Chương trình giáo dục phổ thông thể hiện mục tiêu giáo dục; quy định chuẩn kiến thức, kỹ năng, phạm vi và cấu trúc nội dung giáo dục phổ thông; phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động giáo dục, cách thức đánh giá kết quả giáo dục đối với các môn học ở mỗi lớp và mỗi cấp học của giáo dục phổ thông” ( Điều 29, mục II - Luật Giáo dục – 2005). Như vậy, đổi mới chương trình giáo dục phổ thông phải là quá trình đổi mới từ mục tiêu, nội dung, phương pháp đến phương tiện giáo dục, đánh giá chất lượng giáo dục, kể cả việc đổi mới các xây dựng chương trình, từ quan niệm cho đến quy trình kỹ thuật và đổi mới hoạt động quản lý cả quá trình này. Trong đó, đổi mới kiểm tra đánh giá là công cụ quan trọng, chủ yếu xác định năng lực nhận thức người học, điều chỉnh quá trình dạy và học; là động lực để đổi mới phương pháp dạy học, góp phần cải thiện, nâng cao chất lượng đào tạo con người theo mục tiêu giáo dục.

Tuy nhiên, trong nhiều năm thực hiện đổi mới giáo dục đã trôi qua, ngoài những kết quả đạt được về quy mô, về đa dạng hoá các loại hình đào tạo, về xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện dạy học…thì chất lượng giáo dục vẫn là một vấn đề làm cho chúng ta vẫn phải băn khoăn nhiều nhất. Hiệu quả của đổi mới phương pháp giáo dục ở nhiều nơi còn quá chênh lệch và không cao mà nguyên nhân chủ yếu là do nhận thức và đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá còn chưa cập với đổi mới phương pháp giảng dạy “ thi thế nào thì học thế ấy”.

Hiện nay, do nhiều lí do mà việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập của  học sinh trong các trường phổ thông, giáo viên chưa đề cao đến việc kiểm tra đánh giá ở lĩnh vực nhận thức của học sinh. Như giáo viên mới chỉ đánh giá để biết được mức độ tiếp thu kiến thức và kỹ năng của người học mà chưa chú ý đến yêu cầu thực hiện những công việc có ý nghĩa giống với những thách thức đời thường sẽ gặp sau này để xem người học hình thành kỹ năng đến mức nào. Theo các nhà nghiên cứu giáo dục thì cái quan trọng nhất trong việc đào tạo ở THPT là dạy cách học, do vậy việc nâng cao mức độ đánh giá cần được quán triệt khi chọn nội dung đánh giá cũng như hình thức đánh giá và đặc biệt cần phải bảo đảm nguyên tắc "Kiểm tra đánh giá của giáo viên phải kích thích được sự tự kiểm tra đánh giá của người học và kiểm định được chính xác, khách quan thành quả học tập và mức độ đạt được mục tiêu dạy học".

Trường THPT Bình Sơn huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc  không đứng ngoài thực trạng đó. Hơn ai hết, là người làm công tác quản lý một trường THPT trên quê hương mà mình dã sinh ra và lớn lên, tôi nhận thức rõ trách nhiệm đặt lên vai của mình. Phải có biện pháp chỉ đạo thiết thực, phù hợp nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục, đổi mới kiểm tra đánh giá làm động lực để đổi mới phương pháp dạy học có hiệu quả. Vì vậy, chọn đề tài  tìm ra các giải pháp đánh giá toàn diện, chính xác kết quả học tập cần sử dụng đồng bộ, có hiệu quả các hình thức kiểm tra đánh giá đúng kết quả học tập của học sinh từ đó đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên đáp ứng yêu của thực tế và đây cũng là hướng quy hoạch giáo dục trong tương lai. Xuất phát từ những lý do khách quan, chủ quan như đã phân tích, tôi đã nghiên cứu đề tài: “Đổi mới kiểm tra đánh giá là động lực để đổi mới phương pháp dạy học ở trường THPT Bình Sơn, tỉnh Vĩnh Phúc “.

2.MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

Qua việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất và lý giải những biện pháp chỉ đạo đổi mới kiểm tra đánh giá ở trường THPT Bình Sơn, tỉnh Vĩnh Phúc, từ đó góp phần nhỏ bé của mình vào việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh của n

3.NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

3.1- Xác định cơ sở khoa học của việc quản lý chỉ đổi mới kiểm tra đánh giá.

3.2- Phân tích thực trạng việc quản lý, chỉ đạo đổi mới kiểm tra đánh giá ở trường THPT Bình Sơn, tỉnh Vĩnh Phúc

3.3- Đề  xuất và lý giải một số biện pháp đổi mới kiểm tra đánh giá ở trường THPT Bình Sơn, tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay.

4.PHẠM VI NGHIÊN CỨU

          Vì thời gian nghiên cứu có hạn, nên đề tài này tôi  chỉ tiến hành nghiên cứu ở trường THPT Bình Sơn – Sông Lô- Vĩnh Phúc, nơi mà tôi đang công tác.

5.ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

Đổi mới kiểm tra đánh giá là động lực để đổi mới phương pháp dạy học ở trường THPT Bình Sơn, tỉnh Vĩnh Phúc.

6.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

6.1- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận

- Nghiên cứu các Văn kiện Đại hội Đảng, Hiến pháp, Luật Giáo dục, Điều lệ trường trung học, Hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục của Bộ Giáo dục, Sở GD - ĐT Vĩnh Phúc, trường THPT Bình Sơn.

- Giáo trình, sách của các nhà khoa học.

- Tài liệu, Tạp chí...

6.2- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn

- Quan sát, đàm thoại, trao đổi, khảo sát...

- Tổng kết kinh nghiệm quản lý giáo dục.

6.3- Nhóm phương pháp nghiên cứu hỗ trợ

- Thống kê, toán học, biểu bảng, sơ đồ...

PHẦN THỨ HAI: PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG I

NHỮNG CƠ SỞ KHOA HỌC

CỦA ĐỔI MỚI KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ Ở TRƯỜNG THPT

1.1-CƠ SỞ LÝ LUẬN

Kiểm tra - đánh giá là quá trình thu thập và xử lý thông tin về trình độ, khả năng thực hiện mục tiêu học tập của học sinh về tác động và nguyên nhân của tình hình đó, nhằm tạo cơ sở cho những quyết định của giáo viên và nhà trường, cho bản thân học sinh để học sinh học tập ngày một tiến bộ hơn. Phương tiện và hình thức quan trọng của đánh giá là kiểm tra.

          Đánh giá với hai chức năng cơ bản là xác nhận và điều khiển. Xác nhận đòi hỏi độ tin cậy, điều khiển đòi hỏi tính hiệu lực. thực hiện tốt đồng thời cả hai chức năng sẽ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Đánh giá chất lượng giáo dục gồm nhiều vấn đề, trong đó hai vấn đề cơ bản nhất là đánh giá chất lượng dạy của thầy và đánh giá chất lượng học của trò. Đánh giá thực chất sẽ tạo động lực nâng cao chất lượng dạy và học.

          Trong qúa trình hình thành và hoàn thiện nhân cách của mình, mỗi học sinh được trải qua quá trình giáo dục bao gồm các mặt giáo dục trí tuệ, đạo đức, thể chất, thẩm mĩ. Đánh giá chất lượng học tập của các môn học của học sinh thực chất là xem xét mức độ hoàn thành mục tiêu giáo dục đã đặt ra cho quá trình giáo dục ở các môn học, trong đó chủ yếu là xem xét những năng lực về mặt trí tuệ mà học sinh đã đạt được sau một giai đoạn học tập.

          Tham gia vào quá trình học tập, học sinh có mục đích chiếm lĩnh những tri thức của môn học mà những tri thức này được mục tiêu của mỗi môn học đặt ra và yêu cầu học sinh phải đạt được. Mục tiêu  môn học đặt ra các yêu cầu về kiến thức, kỹ năng, thái độ thể hiện trong chương trình giáo dục phổ thông. Trong quá trình dạy học, giáo viên phải đặt ra những kế hoạch để kiểm tra mức độ đạt được yêu cầu so với mục tiêu đặt ra. Kiểm tra xem học sinh đạt được những yêu cầu về các mặt ở mức độ nào, so với mục tiêu môn học đề ra hoàn thành được đến đâu.

          Hoạt động dạy và học luôn cần có những thông tin phản hồi để điều chỉnh kịp thời nhằm tạo ra hiệu quả ở mức cao nhất thể hiện ở chất lượng học tập của học sinh. Dạy học căn cứ kết quả đầu ra cần thông tin phản hồi đa dạng. Về phương diện này chất lượng học tập được xem như chất lượng của một sản phẩm đang trong giai đoạn hình thành và hoàn thiện. Sự điều chỉnh, bổ sung những kiến thức, kỹ năng, thái độ còn chưa hoàn thiện giúp cho chất lượng học tập trở thành tri thức bền vững cho mỗi học sinh. Việc kiểm tra chất lượng học tập sẽ giúp cho các nhà quản lý giáo dục, các giáo viên và bản thân học sinh có những thông tin xác thực, tin cậy để có những tác động kịp thời nhằm điều chỉnh và bổ sung để hoàn thiện sản phẩm trong quá trình dạy học.

Qui trình kiểm tra - đánh giá kết quả học tập  quá trình tự sử dụng các hình thức kiểm tra - đánh giá khác nhau trong suốt quá trình dạy học môn học nhằm rèn luyện việc đạt các mục tiêu đã xác định trong đề cương môn học. Có 2 hình thức kiểm tra - đánh giá: 1) Kiểm tra - đánh giá thường xuyên; 2) Kiểm tra - đánh giá định kỳ. Kiểm tra - đánh giá thường xuyên là hoạt động của giáo viên sử dụng  các kĩ thuật đánh giá khác nhau trong các hình thức tổ chức thực hiện giờ dạy (lí thuyết, thảo luận, thực hành, thí nghiệm, hoạt động theo nhóm, tự học, tự nghiên cứu, ...) như một bộ phận của phương pháp dạy học nhằm rèn luyện và kiểm tra việc rèn luyện các kiến thức, kĩ năng đã được xác định trong mục tiêu của môn học. Kiểm tra - đánh giá định kì là hoạt động của giáo viên vào những thời điểm đã được qui định trong đề cương môn học, gắn các mục tiêu cụ thể trong từng giai đoạn với những phương pháp kiểm tra - đánh giá tương ứng nhằm đánh giá, định hướng việc đạt mục tiêu môn học ở giai đoạn tương ứng của học sinh. Kết quả kiểm tra - đánh giá định kì được xem là kết quả học tập môn học của học sinh  và là cơ sở để đánh giá chất khi kết thúc môn học.

          Vị trí, vai trò của kiểm tra – đánh giá là không chỉ ở thời điểm cuối cùng của mỗi giai đoạn giáo dục mà trong cả quá trình. Đánh giá ở mỗi thời điểm cuối mỗi giai đoạn sẽ trở thành khởi điểm của một giai đoạn giáo dục tiếp theo với yêu cầu cao hơn, chất lượng mới hơn trong cả một quá trình giáo dục.

Đổi mới kiểm tra, đánh giá là hướng vào bám sát mục tiêu từng bài, từng chương và mục tiêu giáo dục của môn học ở từng lớp, từng cấp. Các câu hỏi, bài tập sẽ đo được mức độ thực hiện các mục tiêu đã được xác định. Đổi mới nội dung, phương pháp theo hướng tích cực, chủ động, sáng tạo, tạo niềm tin, năng lực tự học cho học sinh thì đánh giá phải đổi mới theo hướng phát triển trí thông minh, sáng tạo của học sinh, khuyến khích vận dụng linh hoạt các kiến thức, kỹ năng đã học vào những tình huống thực tế, làm bộc lộ những cảm xúc, thái độ của học sinh trước những vấn đề nóng hổi của đời sống cá nhân, gia đình và cộng đồng. Chừng nào việc kiểm tra đánh giá chưa thoát khỏi quỹ đạo học tập thụ động thì chưa thể phát triển dạy và học tích cực.

Hướng tới kiểm tra đánh giá công bằng, khách quan, kịp thời và không bỏ sót kết quả học tập của học sinh, phải có tác dụng giáo dục và động viên học sinh, giúp học sinh sửa chữa thiếu sót kịp thời. Bộ công cụ đánh giá sẽ được bổ sung các hình thức đánh giá khác như đưa thêm dạng câu hỏi, bài tập trắc nghiệm; chú ý hơn tới đánh giá cả quá trình lĩnh hội tri thức của học sinh, quan tâm tới mức độ hoạt động tích cực, chủ động của học sinh trong từng tiết học, cả tiết tiếp thu kiến thức mới và tiết thực hành, thí nghiệm. Điều này đòi hỏi giáo viên phải bỏ nhiều công sức hơn cũng như công tâm hơn trong việc kiểm tra đánh giá. Lãnh đạo nhà trường cần quan tâm và giám sát hoạt động này.

Đánh giá hoạt động dạy học không chỉ đánh giá thành tích học tập của học sinh mà còn bao gồm đánh giá quá trình dạy học nhằm cải tiến quá trình dạy học. Chú trọng kiểm tra, đánh giá hành động, tình cảm của học sinh: nghĩ và làm. Năng lực vận dụng vào thực tiễn của học sinh, thể hiện qua ứng xử, giao tiếp. Cần bồi dưỡng những phương pháp, kỹ thuật lấy thông tin phản hồi của học sinh để đánh giá quá trình dạy học.

Đánh giá kết quả học tập của học sinh, thành tích học tập của học sinh không chỉ đánh giá kết quả cuối cùng mà chú ý cả quá trình học tập. Trong đó cần chú ý: Không tập trung vào khả năng tái hiện tri thức mà chú trọng khả năng vận dụng tri thức trong việc giải quyết các nhiệm vụ phức hợp. Căn cứ vào đặc điểm của từng môn học và hoạt động giáo dục ở mỗi cấp học, cần có quy trình đánh giá bằng điểm kết hợp với nhận xét của giáo viên cho từng môn học và hoạt động giáo dục.

Nội dung đánh giá có thể hơi “ cao” hơn so với trình độ học sinh ( đòi hỏi tư duy, suy luận), nhưng không được quá khó, để kích thích sự tìm tòi, sáng tạo, hứng thú. Chú trọng yêu cầu đòi hỏi học sinh phải hiểu nội dung, hiểu bản chất nội dung, không chỉ thuộc một cách máy móc. Theo hướng phát triển các phương pháp tích cực để đào tạo những con người năng động, sớm thích nghi với đời sống xã hội, thì việc kiểm tra đánh giá không chỉ dừng lại ở yêu cầu tái hiện kiến thức, lập lại các kỹ năng đã học mà phải khuyến khích trí thông minh, óc sáng tạo trong việc giải quyết những tình huống thực tế. Hệ thống câu hỏi kiểm tra đánh giá cũng cần thể hiện sự phân hoá, đảm bảo 70% câu hỏi, bài tập đo được mức độ đạt chuẩn - mặt bằng về nội dung học vấn dành cho mọi học sinh THPT và 30% còn lại phản ánh mức độ nâng cao – dành cho học sinh có năng lực trí tuệ và thực hành cao hơn.

Đổi mới kiểm tra đánh giá bao gồm cả đổi mới hình thức đánh giá, phương thức đánh giá, phương tiện đánh giá, tiêu chí đánh giá, thiết kế đề kiểm tra để đánh giá học sinh. Đổi mới hình thức đánh giá là sử dụng phối hợp các hình thức, phương pháp kiểm tra đánh giá khác nhau, kết hợp giữa trức nghiệm tự luận và trắc nghiệm khách quan. Đổi mới phương thức đánh giá là tăng cường đánh giá trong giờ, ngoài giờ, chính thức và không chính thức. Đánh giá qua quan sát, trao đổi - thảo luận, qua tự học, chuẩn bị, tìm thêm tư liệu, sáng tạo, đồ dùng học tập. Tạo sự kết hợp linh hoạt giữa kiểm tra, lượng giá, đánh giá định tính và định lượng. Chú trọng hướng dẫn học sinh phát triển khả năng và thói quen tự đánh giá, đánh giá lẫn nhau. Kết hợp giữa đánh giá của thầy với đánh giá của trò. Có được như vậy thì mới tự điều chỉnh được cách dạy và cách học. Đổi mới phương tiện đánh giá là tăng cường sử dụng công nghệ thông tin để giúp đánh giá khách quan, chính xác và kịp thời. Với ự giúp đỡ này thì kiểm tra đánh giá sẽ không còn là một công việc nặng nhọc đối với giáo viên, mà lại cho nhiều thông tin kịp thời điều chỉnh hoạt động dạy, chỉ đạo hoạt động học. Đổi mới các tiêu chí đánh giá là phải đánh giá được toàn diện các mặt của giáo dục của học sinh; đảm bảo sự tin cậy, chính xác, công bằng, khách quan, phản ánh chất lượng thực; đảm bảo khả thi, phù hợp với điều kiện của học sinh, cơ sở giáo dục, mục tiêu từng môn học; đảm bảo yêu cầu phân hoá; đảm bảo giá trị, hiệu quả cao. Đổi mới thiết kế đề kiểm tra để đánh giá học sinh là vừa kết hợp giữa tự luận và trắc nghiệm khách quan. Thiết kế đề phải xác định được mục đích, yêu cầu của đề; xác định mục tiêu dạy học; thiết lập ma trận hai chiều; thiết kế đáp án, biểu điểm.

1.2-CƠ SỞ PHÁP LÝ

Nghị quyết số 40/2000/QH10, ngày 09 tháng 12 năm 2000 của Quốc hội khoá X về đổi mới chương trình phổ thông đã khẳng định: “ Đổi mới nội dung chương trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy và học phải thực hiện đồng bộ với việc nần cấp và đổi mới trang thiết bị dạy học, tổ chức đánh giá, thi cử, chuẩn hoá trường sở, đào tạo, bời dưỡng giáo viên và công tác quản lý giáo dục”.

Mục 2 điều 11 Nghị định số 75/2006/NĐ-CP ngày 02 tháng 8 năm 2006 của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục xác định: “ Việc đánh giá kết quả học  tập, công nhận người học hoàn thành chương trình môn học, cấp học hoặc trình độ đào tạo bằng hình thức kiểm tra, thi kết thúc môn học, thi tốt nghiệp hoặc xét tốt nghiệp; kết quả kiểm tra, thi là một căn cứ chủ yếu giúp nhà trường và các cấp quản lý giáo dục đánh giá chất lượng giáo dục”.

Điều lệ trường trung học ban hành theo quyết định số 07/2007/QĐ-BGDĐT ngày 02/4/2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ghi rõ: “Học sinh được kiểm tra, đánh giá kết quả học tập, rèn luyện theo Quy chế đánh giá và xếp loại học sinh của Bộ Giáo dục và Đào tạo”- ( Quy chế 40).

Hướng dẫn Bộ GD & ĐT về nhiệm vụ của toàn ngành trong năm học 2008 - 2009 trong nội dung nhiệm vụ thứ hai phần f nói về tiếp tục đổi mới công tác thi, kiểm tra và đánh giá: “Củng cố và hoàn thiện hệ thống khảo thí và đánh giá chất lượng giáo dục ở tất cả các tỉnh, thành phố. Tăng cường bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác khảo thí và đánh giá chất lượng giáo dục.Triển khai kế hoạch đánh giá chất lượng giáo dục phổ thông, giáo dục thường xuyên, trung cấp chuyên nghiệp.

Tiếp tục xây dựng ngân hàng câu hỏi thi, kiểm tra của các môn học để giáo viên tham khảo, học sinh luyện tập và vận dụng sáng tạo các nội dung đã học.
          Tiếp tục hoàn thiện Đề án đổi mới thi và tuyển sinh theo lộ trình đổi mới công tác thi và đánh giá chất lượng giáo dục. Phát huy sáng kiến và sự chịu trách nhiệm của các địa phương, đổi mới phương thức tổ chức thi, phấn đấu kỳ thi tốt nghiệp THPT năm học 2008-2009 nghiêm túc và chính xác như thi tuyển sinh đại học, cao đẳng. Tăng cường thanh tra, kiểm tra tất cả các khâu của quy trình tổ chức thi, đảm bảo thi nghiêm túc, khách quan, công bằng, có biện pháp cụ thể để phòng ngừa, ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực. Xây dựng ngân hàng đề thi, kiểm tra đạt yêu cầu về số lượng, chất lượng. nội dung phương pháp giáo dục đã nhấn mạnh: nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức học sinh”.

Như vậy vấn đề đổi mới kiểm tra đánh giá để nâng cao chất lượng giáo dục  học sinh đang là vấn đề cấp thiết trong hoạt động giáo dục của toàn ngành nói chung, của trường THPT nói riêng.

1.3-CƠ SỞ THỰC TIỄN

- Theo cách đào tạo kiểu biên chế theo năm học trong các trường THPT của ta hiện nay, kết quả học tập môn học  của học sinh được đánh giá bằng điểm thi kết thúc môn học – Quy chế, đánh giá xếp loại học sinh THCS và THPT ban hành theo Quyết định số: 40/2006/QĐ-BGD&ĐT ngày 05 tháng 10 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT.

- Tuy nhiên, do phải đối phó với áp lực thi cử nặng nề mà nhiều giáo viên vẫn chưa đổi mới phương pháp vẫn dạy học đọc chép và kiểm tra đánh giá theo lượng kiến thức máy móc mà học sinh ghi nhớ được. Giáo viên đánh giá kết quả học tập của học sinh dựa vào cách thi cử khi mà học sinh chỉ việc chép lại bài giảng ở trên lớp hoặc sách giáo khoa, rất ít khi được trình bày quan điểm của mình. Đề thi kiểm tra đánh giá ra theo hướng “học vẹt” dẫn tới khi thi học sinh có thể chép đáp án ngay từ trong sách mà không cần phải học gì. Đề thi trắc nghiệm, nhiều giáo viên có tâm lý ngại ra đề và trộn các mã đề nên chất lượng của các đề này không cao, không đánh giá đúng theo chuẩn kiến thức, kỹ năng của học sinh.

- Theo Quy chế 40 thì số lần cho điểm kiểm tra thường xuyên, kiểm tra định kỳ của từng môn tăng hơn so với trước nên nhiều giáo viên không kiểm tra đủ số lần điểm cho học sinh mà cấy điểm, hoặc không chấm, trả bài cho học sinh. Cũng theo Quy chế này, thì điểm kiểm tra học kỳ nhân hệ số 3, đặc biệt là học kỳ II lại nhân 2, cộng với học kỳ I và chia cho 3. Do vậy, thường là vào cuối năm, áp lực thi cử lại dồn lên học sinh hết sức nặng nề, thêm vào đó là yêu cầu báo cáo kết quả sớm đã làm cho giáo viên và học sinh căng ra mà chạy.

- Việc đổi mới kiểm tra đánh giá còn gắn liền với đổi mới phương pháp dạy học, phương tiện và thiết bị dạy học. Trong những năm qua Nhà nước và Bộ giáo dục đã đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, máy móc về cho các trường nhưng chất lượng rất thấp chỉ dùng được thời gian là hỏng, hơn nữa đội ngũ bảo quản, sử dụng ở các trường đều không có ( kiêm nhiệm ) do vậy việc sử dụng hầu như không có hiệu quả. Đặc biệt là bộ phận khảo thí ở các trường đều yếu và không tách khỏi độc lập với giáo viên.

CHƯƠNG II

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC  ĐỔI MỚI KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ 

Ở TRƯỜNG THPT BÌNH SƠN TỈNH VĨNH PHÚC

2.1- ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH CHUNG

2.1.1- Đặc điểm chung của địa phương

Trường THPT Bình Sơn đóng trên địa của xã Nhân Đạo, một xã  miền núi nằm ở vùng xa nhất của huyện miền núi Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc. Vùng tuyển sinh của trường gồm 8 xã phía Bắc vùng sâu, vùng xa nhất của huyện Sông Lô. Điều kiện kinh tế, cơ sở hạ tầng, giao thông, thông tin, văn hoá chính trị xã hội... còn gặp rất nhiều khó khăn. Mọi thứ đều thiếu, không đồng bộ, lạc hậu, hạn chế... so với tất cả các huyện khác ở trong tỉnh. Đặc biệt là trình độ dân trí còn rất thấp, đại đa số là làm nghề nông nên có rất nhiều hạn chế trong nhận thức và phương pháp giáo dục trẻ.

Trong vài năm gần đây, thực hiện cuộc vận động: “ Nói không với bệnh thành tích trong giáo dục, nói không với tiêu cực trong thi “ do Bộ Giáo dục phát động và thực hiện đổi mới nội dung chương trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra, đánh giá nhưng chủ yếu vẫn là đối phó với thi cử ( thi tốt nghiệp lớp 12, thi vào đại học – Cao đẳng ), vì đó là các tiêu chí để đánh giá, xếp loại thi đua hằng năm. Do vậy, thực tế thì hầu như vẫn dậm chân tại chỗ mà chẳng đổi mới được bao nhiêu.

2.1.2- Đặc điểm  của trường

Trường THPT Bình Sơn được thành lập vào ngày 03 tháng 12 năm 2003, là một trường có vùng tuyển sinh và nằm ở nơi vùng sâu, vùng xa nhất của huyện miền núi Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc. Sau 7 năm liên tục phấn đấu và trưởng thành đến nay trường đã có một cơ sở trường lớp tương đối khang trang, khuôn viên rộng và thoáng. Hiện nay trường có 31 lớp với 1389 học sinh.

Những năm đầu mới thành lập, qui mô các năm đều tăng hơn năm trước. Tuy nhiên, hai năm trở lại đây sĩ số học sinh trên một lớp tương đối ổn định có chiều hướng giảm xuống theo sĩ số qui định của chuẩn.

Dưới đây là bảng tổng hợp số lớp và sĩ số các năm ( Nguồn nhà trường)

Năm học

Số lớp công lập

Số lớp bán công

Tổng số lớp

Tổng số học sinh

Sĩ số HS trên 1 lớp

2003 - 2004

5

4

9

471

>52

2004 - 2005

11

7

18

917

>50

2005 – 2006

18

11

29

1464

>50

2006 – 2007

22

10

32

1559

>48

2007 – 2008

25

10

35

1613

> 46

2008 - 2009

29

5

34

1534

> 45

2009 - 2010

29

2

32

1405

=44

2010 - 2011

31

0

31

1395

=45

 

Hiện nay trường có 66 cán bộ, giáo viên, nhân viên với 55 giáo viên đứng lớp (5 giáo viên đi học và nghỉ chế độ). Lãnh đạo nhà trường có 01 đồng chí Hiệu trưởng, 01 đồng chí Phó hiệu trưởng. Trường có một Chi bộ Đảng gồm 14 đảng viên, với 11 đồng chí đang ở tuổi Đoàn. Những năm qua Chi bộ liên tục đạt “Chi bộ trong sạch, vững mạnh”. Công đoàn nhà trường liên tục được nhận bằng khen của công đoàn ngành. Chi đoàn giáo viên gồm 58 đồng chí. Đoàn trường liên tục đạt danh hiệu “Đoàn trường có công tác đoàn và phong trào thanh niên xuất sắc”  được Tỉnh Đoàn và Trung Ương Đoàn tặng bằng khen. Mấy năm qua trường giữ vững danh hiệu “Trường tiên tiến cấp tỉnh”, năm học 2008 – 2009 và 2009 – 2010 đạt danh hiệu “ Trường tiên tiến xuất sắc”.

Đội ngũ giáo viên đã được chuẩn hóa và không ngừng phát triển. Tập thể sư phạm thực sự là tổ ấm, đoàn kết, thống nhất.

Dưới đây là bảng tổng hợp cán bộ, giáo viên, nhân viên của trường các năm ( Nguồn nhà trường).

Năm học

Tổng số lớp

Số cán bộ QL

Số giáo viên

Số nhân viên

Trình độ Thạc sỹ

Tỷ lệ giáo viên/lớp

2003 - 2004

9

1

8

1

1

0.89

2004 - 2005

18

2

19

1

1

1.06

2005 – 2006

29

2

35

1

2

1.21

2006 – 2007

32

1

41

1

2

1.28

2007 – 2008

35

3

43

2

3

1.23

2008 - 2009

34

3

51

3

5

1.50

2009 - 2010

32

2

56

2

6

1.75

2010 - 2011

31

2

60

4

8

1.94

Chất lượng giáo dục toàn diện ngày càng tăng với tỷ lệ học sinh lên lớp và đỗ tốt nghiệp hàng năm đạt 90 - 98%. Học sinh lớp 12 đỗ vào Đại học, Cao đẳng ngày càng tăng.

Dưới đây là bảng tổng hợp học sinh đỗ tốt nghiệp lớp 12 và thi đỗ CĐ-ĐH các năm ( Nguồn nhà trường).

Năm học

 

Số lớp 12

 

Số học sinh

Số HS thi đỗ tốt nghiệp

Tỷ lệ %

Số HS thi đỗ CĐ-ĐH

Tỷ lệ %

2003 - 2004

0

0

0

Chưa có

Chưa có

 

2004 - 2005

0

0

0

Chưa có

Chưa có

 

2005 – 2006

9

459

451

98.3

46

10.02

2006 – 2007

9

464

419

90.4

118

25.43

2007 – 2008

11

532

508

95.6

256

48.12

2008 - 2009

11

484

435

89.9

297

61.36

2009 - 2010

11

508

499

98.29

323

63.58

Chất lượng mũi nhọn là học sinh giỏi cấp tỉnh hàng năm đều được nhà trường chú trọng đã không ngừng tăng lên về cả số lượng và chất lượng.

Dưới đây là bảng tổng hợp học sinh đạt giải học sinh giỏi cấp tỉnh các năm ( Nguồn nhà trường).

Năm học

Số học sinh dự thi

Số học sinh đạt giải

 

Giải nhất

 

Giải nhì

 

Giải ba

 

Giải KK

2003 - 2004

38

14

0

1

3

10

2004 - 2005

98

57

0

2

16

39

2005 – 2006

112

71

0

6

20

45

2006 – 2007

119

90

1

6

23

60

2007 – 2008

258

119

4

5

39

71

2008 - 2009

201

97

1

9

32

55

2009 - 2010

198

134

1

20

54

68

2.2-MỘT SỐ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC TRONG CÔNG TÁC ĐỔI MỚI KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ Ở TRƯỜNG THPT BÌNH SƠN TỈNH VĨNH PHÚC

+ Ngay từ đầu năm chi bộ Đảng đã có nghị quyết về đổi mới kiểm tra đánh giá, kiện toàn lại bộ phận khảo thí độc lập kiểm tra đánh giá do một đồng chí Phó Hiệu trưởng trực tiếp phụ trách. Lãnh đạo nhà trường đã có kế hoạch, tổ chức chỉ đạo bằng những biện pháp sát thực, cụ thể: nâng cao nhận thức, vị trí vai trò công tác kiểm tra đánh giá trong tập thể sư phạm, là căn cứ trực tiếp để đánh giá chất lượng giáo viên và chất lượng học tập của học sinh; mua sắm thêm trang thiết bị, máy móc để phục vụ cho việc kiểm tra đánh giá được khách quan  ( máy chấm trắc nghiệm, phần mềm kiểm tra đánh giá ITBM, bảng thông minh ACTIVEBOARD)

+ Công tác đổi mới nội dung chương trình, sách giáo khoa, đổi mới phương pháp dạy và học nói chung và đổi mới kiểm tra đánh giá nói riêng luôn được nhà trường coi trọng hàng đầu. Bởi vì, Đổi mới kiểm tra đánh giá chính là động lực để đổi mới phương pháp dạy học. Trong nghị quyết giáo dục đầu năm học cũng đã nêu cụ thể về:

- Yêu cầu đánh giá: Căn cứ vào chuẩn kiến thức, kỹ năng của từng môn học ở từng lớp; Phối hợp tốt giữa đánh giá thường xuyên với đánh giá định kỳ, giữa đánh giá của giáo viên, của học sinh, của gia đình và của cộng đồng; Không chỉ đánh giá kết quả cuối cùng mà đánh giá trong suốt qua trình học tập.

- Hình thức đánh giá: Sử dụng phối hợp các hình thức kiểm tra đánh giá khác nhau, kết hợp giữa tự luận và trắc nghiệm khách quan.

- Phương tiện đánh giá: Tăng cường sử dụng công nghệ thông tin, máy chấm trắc nghiệm khách quan.

- Các tiêu chí đánh giá: đánh giá toàn diện kiến thức, kỹ năng, năng lực, thái độ, hành vi của học sinh; đảm bảo độ tin cậy, chính xác, khách quan, công bằng; đảm bảo tính khả thi; đảm bảo yêu cầu phân hoá; đảm bảo giá trị và hiệu quả cao.

+ Nhà trường cúng đã cho giáo viên đi tập huấn và mời các chuyên gia về tập huấn cách thiết kế đề kiểm tra theo hướng đổi mới, cụ thể:

-         Xác định mục đích, yêu cầu của đề kiểm tra.

-         Xác định mục tiêu dạy học.

-         Thiết lập ma trận hai chiều.

-         Thiết kế câu hỏi, bài tập theo ma trận.

-         Thiết kế đáp án, biểu điểm.

+ Lãnh đạo nhà trường yêu cầu giáo viên sau mỗi tiết dạy đều phải có 5 câu hỏi trắc nghiệm và 2 câu hỏi tự luận căn cứ vào chuẩn kỹ năng của môn học và bài học đó, sau đó bộ phận khảo thí sẽ nạp các câu hỏi đó vào phần mềm        ( ITBM) xây dựng thành ngân hàng đề, kết hợp với ngân hàng đề của các trường khác và của Sở. Lãnh đạo nhà trường cùng với bộ phận khảo thí sẽ đi kiểm tra bất cứ giờ của giáo viên nào bằng cách là vào phần mềm ngân hàng đề in câu hỏi của bài học đó và kiểm tra trực tiếp học sinh vào 5 phút cuối của giờ học để đánh giá chất lượng giảng dạy và nhận thức của học sinh trong tiết học học đó sau đó có các biện pháp rút kinh nghiệm và điều chỉnh kịp thời.

+ Đối với các đề kiểm tra thường xuyên ( hệ số 1), trường giao cho các giáo viên dạy tự ra đề và chấm. Đối với các đề kiểm tra định kỳ ( hệ số 2 ), giáo viên nào có giờ kiểm tra ở lớp nào báo với bộ phận khảo thí trước 01 ngày, bộ phận khảo thí sẽ lấy ngẫu nhiên từ ngân hàng đề theo chuẩn kiến thức kỹ năng của các phần được kiểm tra in và phô tô cho giáo viên kiểm tra, sau đó thu bài và giao cho giáo viên khác chấm nếu là tự luận, còn nếu là trắc nghiệm thì bộ phận khảo thí chấm bằng máy. Như vậy thì giáo viên dạy cũng không biết đề kiểm tra sẽ như thế nào, và mỗi lớp đều có các đề khác nhau. Đối với kiểm tra học kỳ, bộ phận khảo thí sẽ ra đề chung cho toàn khối và kiểm tra chung trong toàn trường vào các ngày được quy địng cụ thể và sau đó giao bài cho các giáo viên và bộ phận khảo thí sẽ chấm, trên cơ sở quản lý chặt chẽ quá trình coi thi và chấm thi.

+ Mỗi học kỳ, nhà trường đều tổ chức lấy phiếu học sinh về quy chế chuyên môn, công tác giảng dạy, công tác chủ nhiệm và công tác kiểm tra đánh giá, phát hiện đồng chí giáo viên nào không coi chấm, trả bài nghiêm túc nhà trường đều có những hình thức xử lý đích đáng. Qua đó cũng đã động viên được gương các giáo viên tốt và kịp thời uốn nắn các giáo viên còn vi phạm.

+ Bằng các biện pháp nói trên công tác đổi mới kiểm tra đánh giá của trường đã có nhiều tiến bộ rõ rệt, cụ thể:

- Ban khảo thí đã đi kiểm tra đình kỳ và kiểm tra đột suất 48 giáo viên, trong đó đánh giá giờ dạy đạt: 42% loại tốt, 47% loại Khá, 8% loại TB, 3 % loại yếu.

- Tất cả các giáo viên đều biết cách ra đề theo hướng đổi mới kiểm tra, đánh giá để nạp vào phần mềm ngân hàng đề và không có giáo viên nào vi phạm không chấm trả bài cho học sinh.

Kết quả xếp loại học lực trong những năm gần đây:

 

Năm học

Tổng số HS

Xếp loại học lực

Số HS phải thi lại

Số HS bị đúp

Giỏi (%)

Khá (%)

Trung bình (%)

Yếu, kém (%)

2005 - 2006

1457

0,06

22

67

11

42

24

2006 - 2007

1568

0,2

27

64

9

39

21

2007 - 2008

1632

1

31

60

8

28

19

2008 - 2009

1555

1,6

34,5

57

7

24

15

2009 - 2010

1405

2.0

41.4

53.5

3.1

26

12

2.3-MỘT SỐ TỒN TẠI

- Vẫn còn một số ít  giáo viên chưa tập trung đầu tư vào đổi mới kiểm tra đánh giá cho nên ra đề nhiều khi còn chiếu lệ, chưa có chất lượng.

- Các em học sinh vẫn chưa thực sự hoà nhập vào đổi mới kiểm tra đánh giá mà vẫn còn có tư tưởng học tủ, học vẹt.

- Sự phối hợp giữa ban khảo thí và cá giáo viên nhiều khi vẫn chưa được thông suốt, đối phó với sự kiểm tra của lãnh đạo nhà trường.

2.4- MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG TỔ CHỨC, CHỈ ĐẠO ĐỔI MỚI KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ Ở TRƯỜNG THPT BÌNH SƠN, TỈNH VĨNH PHÚC

Qua phân tích những kết quả đã đạt được những tồn tại, thách thức trong công tác đổi mới kiểm tra đánh giá ở trường THPT Bình Sơn - Sông Lô - Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay chúng tôi thấy cần làm tốt những vấn đề sau:

- Tiếp tục nâng cao nhận thức, vai trò trách nhiệm cho mọi thành viên, tổ chức trong nhà trường về công tác đổi mới kiểm tra đánh giá.

- Tăng cường vai trò lãnh đạo toàn diện của chi bộ Đảng ở trường học (đặc biệt là lãnh đạo tư tưởng chính trị).

- Nâng cao vai trò, trách nhiệm của cán bộ quản lý, ban khảo thí trong công tác chỉ đạo công tác đổi mới kiểm tra đánh giá.

- Tuyên truyền tốt tư tưởng tới học sinh và cha mẹ học sinh trong đổi mới kiểm tra đánh giá.

- Kết hợp chặt chẽ các lực lượng xã hội khác tham gia hoạt động giáo dục: Hội cha mẹ  học sinh – Uỷ ban nhân dân các xã ... Những nội dung trên được cụ thể bằng một số biện pháp chỉ đạo được trình bày ở Chương III.

CHƯƠNG III

MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO CÔNG TÁC ĐỔI MỚI KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ Ở TRƯỜNG THPT BÌNH SƠN, TỈNH VĨNH PHÚC

3.1- Nâng cao nhận thức, vai trò trách nhiệm của các thành viên, tổ chức nhà trường trong công tác đổi mới kiểm tra, đánh giá

3.1.1- Tăng cường vai trò lãnh đạo toàn diện của chi bộ Đảng

Chi bộ Đảng là trung tâm chính trị, tập hợp lực lượng quần chúng nhằm thực hiện tốt các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Trong nhà trường, chi bộ Đảng lãnh đạo toàn diện, đặc biệt chú trọng công tác lãnh đạo tư tưởng, chính trị.

Chi bộ Đảng là cầu nối trực tiếp Đảng với quần chúng. Thông qua giáo viên, nhân viên, học sinh mà chi bộ nắm tâm tư, nguyện vọng, góp ý kiến để chi bộ đưa ra những chủ trương, giải pháp sát thực với tình hình nhằm chỉ đạo thực hiện có hiệu quả công tác đổi mới.

Chi bộ có trách nhiệm chú trọng kiện toàn tổ chức nhằm phát huy chức năng của Hiệu trưởng, vai trò của Công đoàn, Đoàn thanh niên, ban khảo thí và các tổ chức quần chúng khác. Tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng nhằm nâng cao nhận thức về định hướng chính trị cho giáo viên, nhân viên và học sinh.

Từng đảng viên phải thấm nhuần phong cách tác phong  cách mạng, từ đó mỗi đảng viên trở thành một tấm gương sáng, một chuẩn mực để quần chúng học sinh noi theo. Chi bộ Đảng phải thường xuyên kiểm tra bằng nhiều hình thức, qua đó để phát hiện nhân tố mới, kịp thời khắc phục khuyết điểm, bổ sung điều chỉnh chủ trương, phương hướng tiếp theo, giúp hoạt động quản lý đi đúng định hướng.

3.1.2- Xây dựng khối đoàn kết, thống nhất trong tập thể sư phạm

Tập thể sư phạm trong trường phổ thông là tập thể lao động sư phạm có tổ chức, có mục đích giáo dục thống nhất, có phương thức hoạt động nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà trường. Xây dựng tập thể sư phạm nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của tập thể để thực hiện tốt mục tiêu của nhà trường. Cần  làm cho mỗi giáo viên, nhân viên nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của công tác đổi mới kiểm tra, đánh giá là động lực để thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học.  Đó là một mặt không thể tách rời trong quá trình giáo dục, đó không phải là nhiệm vụ của riêng ai. Từ đó, tùy vị trí nhiệm vụ của mình để làm công tác đổi mới kiểm tra, đánh giá. Thông qua các buổi họp, buổi rút kinh nghiệm để góp ý cho giáo viên thực hiện nghiêm túc nghị quyết của chi bộ, đặc biệt là các hiện tượng dùng điểm để khống chế học sinh.

Người cán bộ quản lý phải quán triệt đầy đủ các nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác giáo dục đào tạo. Phải xây dựng và củng cố khối đoàn kết nhất trí trong tập thể sư phạm. Công đoàn tổ chức, giáo dục giáo viên, nhân viên, thường xuyên duy trì, thực hiện tốt cuộc vận động:      “ Nói không với bệnh thành tích trong giáo dục, nói không vơi tiêu cực trong thi kiểm tra”. Cán bộ, giáo viên cần được bồi dưỡng tư tưởng chính trị, đạo đức, lý tưởng nghề nghiệp, công bằng trong kiểm tra, đánh giá để kích thích năng lực học tập của học sinh.

3.1.3- Phát huy vai  trò của Ban khảo thí

Ban khảo thí là bộ phận hết sức quan trọng trong công tác đổi mới kiểm tra, đánh giá. Ban khảo thí là bộ phận thay mặt lãnh đạo nhà trường kiểm tra đánh giá chất lượng giờ dạy của giáo viên và chất lượng học tập của học sinh. Do vậy, những cán bộ khảo thí phải là những ngưòi thấm nhuần tư tưởng đổi mới kiểm tra đánh giá, đồng thời phải luôn luôn công tâm, công bằng, chính xác và khách quan khi đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên cúng như chất lượng học tập của học sinh. Chỉ cần một sai lầm nhỏ trong công tác kiểm tra đánh giá cũng dễ dẫn đến tiêu cực, mất đoàn kết trong giáo viên và trong cả học sinh.

Lãnh đạo trường phối hợp cùng với ban khảo thí kiểm tra đánh giá giáo viên và chất lượng học tập của học sinh, đồng thời cũng tạo điều kiện để ban khảo thí hoàn thành tốt nhiệm vụ.

3.1.4- Phát huy vai  trò tự kiểm tra  đánh giá của học sinh

Bên cạnh việc kiểm tra đánh giá của giáo viên trong suốt các giờ học, kiểm tra thường xuyên, kiểm tra định kỳ thì giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh biết tự đánh giá kiến thức của mình, biết đánh giá cho bạn mình. Như vậy, thì thay vào việc xưa nay giáo viên độc quyền đánh giá học sinh thì nay học sinh có quyền tham gia vào kết quả đánh giá của chính mình và của bạn mình.

Học sinh còn là cầu nối giữa cá nhân học sinh, giáo viên, ban khảo thí và lãnh đạo nhà trường trong công tác đổi mới kiểm tra đánh giá. Mỗi cá nhân được thử nghiệm vị trí, vai trò của mình trong công tác kiểm tra đánh giá chính bản thân học sinh.

Muốn có những học sinh, tập thể học sinh có vai trò trong đổi mới kiểm tra đánh giá, vai trò của giáo viên giảng dạy vô cùng to lớn. Giáo viên giảng dạy phải hướng dẫn các em, phải lắng nghe các em, phải công tâm, công bằng và khách quan đối với mọi học sinh. Lãnh đạo trường, ban khảo thí cần lắng nghe ý kiến của các em, định hướng giúp các em phương pháp tự kiểm tra đánh giá.

3.1.5-Vai trò, trách nhiệm của người cán bộ quản lý

Người cán bộ quản lý (CBQL) phải nắm vững cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác đổi mới phương pháp dạy học nói chung và đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá nói riêng từ đó thực hiện tốt chức năng quản lý và chỉ đạo công tác đổi mới kiểm tra đánh giá. Xây dựng được kế hoạch khảo thí, kiểm tra đánh giá thống nhất với mục tiêu giáo dục trong trường THPT. Kế hoạch  phù hợp với kế hoạch kiểm tra đánh giá theo từng tuần, từng tháng, và cả năm học. Xây dựng kế hoạch có tính khả thi cao, lôi cuốn được mọi lực lượng tham gia. Sau khi có kế hoạch, người cán bộ quản lý  tổ chức triển khai để mọi lực lượng tham gia nắm chắc kế hoạch, từ đó tổ chức chỉ đạo thực hiện và kiểm tra đánh giá kịp thời, điều chỉnh, bổ sung nhằm đạt mục tiêu giáo dục  đề ra một cách hiệu quả nhất.

Để chỉ đạo công tác đổi mới kiểm tra đánh giá thành công, người cán bộ quản lý phải có uy tín thực sự với tập thể giáo viên và tập thể học sinh, nhân dân. Người CBQL cần có trí tuệ thông suốt, hiểu biết sâu rộng, có kinh nghiệm sư phạm và trải nghiệm cuộc sống, lòng nhân ái, khoan dung, năng động sáng tạo trong công việc. Biết đoàn kết, thuyết phục và cảm hóa mọi người. Xây dựng tập thể nhà trường thành khối thống nhất tạo nên sức mạnh tổng hợp trong mọi hoạt động giáo dục của nhà trường.

3.2-Nâng cao năng lực của học sinh trong công tác đổi mới kiểm tra, đánh giá.

3.2.1- Về công tác tổ chức

- Để tổ chức chỉ đạo công tác đổi mới kiểm tra, đánh giá trong học sinh, Hiệu trưởng  nhà trường đã thành lập ban chỉ đạo gồm:

+ Đồng chí phó hiệu trưởng: Lê Gia Thanh – Trưởng ban

+ Đồng chí Đỗ Bằng Giang - Trưởng ban khảo thí – Phó ban

+ Các đồng chí tổ trưởng chuyên môn là thành viên

Ban chỉ đạo có nhiệm vụ giúp Hiệu trưởng xây dựng kế hoạch chương trình và chỉ đạo chương trình đó. Tổ chức các hoạt động tuyên truyền theo qui mô lớn và phối hợp với các lực lượng tham gia tuyên truyến công tác đổi mới kiểm tra đánh giá đến toàn thể các em học sinh. Giúp các đồng chí giáo viên hướng dẫn học sinh biết tự đánh giá và biết đánh giá cho bạn mình, đồng thời giúp Hiệu trưởng kiểm tra đánh giá các hoạt động. Mỗi tháng họp ban chỉ đạo một lần để sơ kết đánh giá và triển khai kế hoạch tiếp theo.

3.2.2- Hướng dẫn học sinh đổi mới công tác kiểm tra đánh giá trong từng giờ học thông qua học tập các môn học

Qua từng giờ học, giáo viên liên tục ra các câu hỏi kiểm tra cả kiến thức cũ và kiến thức mới cho học sinh trả lời, sau đó cho bạn nhận xét, trả lời bổ sung và giáo viên sẽ là người đưa ra câu trả lời cuối cùng. Căn cứ vào đó hướng dẫn các em tự đánh giá xem mình trả lời đã chính xác chưa, bạn trả lời đã chính xác chưa, và theo thang điểm mà giáo viên đưa ra thì mình nằm ở thang điểm nào.

Đối với các bài kiểm tra thường xuyên, kiểm tra định kỳ theo hình thức tự luận hay hình thức trắc nghiệm thì giáo viên đều ra các thang điểm rõ ràng và công bố công khai đáp án để học sinh tự đánh giá cũng như đánh giá cho bạn mình, từ đó giúp học sinh cố gắng hơn trong học tập cũng như triệt tiêu được việc giáo viên dùng điểm để khống chế học sinh.

PHẦN KẾT LUẬN

1.MỘT SỐ KẾT LUẬN

Vấn đề đổi mới nội dung chương trình, sách giáo khoa, đổi mới phương pháp dạy và học, đổi mới phương tiện, thiết bị dạy học, công tác quản lý không thể thiếu được đổi mới kiểm tra đánh giá. Bởi vì, đổi mới kiểm tra đánh giá chính là động lực để đổi mới phương pháp dạy học.

Từ những cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý của đề tài, qua phân tích thực trạng công tác  đổi mới kiểm tra đánh giá ở trường THPT Bình Sơn, tỉnh Vĩnh Phúc chúng tôi mạnh dạn đưa ra một số biện pháp chỉ đạo  đổi mới kiểm tra đánh giá nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Như vậy, mục đích nghiên cứu đã hoàn thành.Chúng tôi đã đưa ra một số biện pháp chỉ đạo vừa mang tính thực tiễn vừa mang tính khả thi là:

* Tăng cường vai trò lãnh đạo toàn diện của chi bộ Đảng

* Xây dựng khối đoàn kết, thống nhất trong tập thể sư phạm .

* Phát huy vai trò của Ban khảo thí.

* Phát huy vai trò tự kiểm tra đánh giá của học sinh .

* Vai trò, trách nhiệm của người cán bộ quản lý.

2.MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

+ Đối với Bộ Giáo dục & Đào tạo:

- Chương trình SGK còn quá tải về mặt kiến thức. Các điều kiện dạy học lại chưa đầy đủ, ảnh hưởng đến thời lượng , giờ lên lớp, dẫn đến nhiều giáo viên chưa thật sự chú ý đến công tác đổi mới kiểm tra, đánh giá.

- Cải tiến hình thức đánh giá và thi cử làm sao cho học sinh thấy được kết quả phản ánh đúng với khả năng thực của các em.

- Có quy chế cụ thể cho Ban khảo thí làm việc có hiệu quả.

- Nên có các hình thức đánh giá thi đua của các trường sao cho hợp lý.

+ Đối với Sở GD-ĐT:

- Tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, hoạt động đổi mới nội dung chương trình, SGK, phương pháp dạy học nói chung và đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá nói riêng.

- Yêu cầu các trường trong tỉnh gửi các đề kiểm tra đánh giá vào phần mềm ngân hàng chung của toàn tỉnh.

- Có chuyên đề bồi dưỡng phương pháp ra đề, kiểm tra đánh giá cho giáo viên các bộ môn, đặc biệt là các Ban khảo thí.

Vĩnh Phúc, tháng 9 năm 2010

LÊ GIA THANH

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

  1. Điều lệ trường THPT số 07/2007/QĐ-BGDĐT ngày 02/4/2007.
  2. Luật Giáo dục 2005. NXB Lao động 2007.
  3. Nghị định của Chính phủ.
  4. Nghị quyết của Đại hội Đảng.
  5. Quy chế 40 đánh giá xếp loại học sinh THCS-THPT.
  6. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên. NXB Giáo dục.
    1. Tài liệu hướng dẫn nhiệm vụ năm học 2009-2010. NXB Giáo dục.
  7. Hồ Ngọc Đại - Giải pháp giáo dục. NXB hà Nội 2007.
  8. Phạm Minh Hạc – Phát triển văn hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc kết hợp với tinh hoa nhân loại. NXB. KHXH Hà Nội 1996.

10. Nguyễn Thị Phương Hoa – Lý luận dạy học hiện đại.

11. Thái Duy Tuyên – Phương pháp dạy học truyền thống và đổi mới. NXB Giáo dục 2008.

12. Phạm Viết Vượng – Giáo dục học. NXB ĐHQG Hà Nội 2007


Nguồn: binhson.edu.vn

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

- Hãy dùng tiếng Việt có dấu để mọi người dễ đọc hơn!
- Các bạn hãy Mã hóa Code trước khi chèn vào nhận xét
- Chèn link bằng thẻ: <a href="URL liên kết" rel="nofollow">Tên link</a>
- Tạo chữ <b>đậm</b> và <i>Ngiêng</i>
- Hướng dẫn gõ công thức Toán trên blog bằng MathType
Thank you